Xây dựng và hoàn thiện nền quản trị gắn với chuyển đổi số quốc gia trong kỷ nguyên vươn mình của đất nước

Thứ tư - 30/10/2024 11:01 36 0

Trình độ phát triển khoa học và công nghệ có ảnh hưởng lớn đến quá trình xây dựng, hoàn thiện nền quản trị quốc gia, nhưng suy cho cùng, nhân tố con người vẫn giữ vai trò quyết định. 

Đại tướng Tô Lâm, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an tham quan gian trưng bày các thành tựu về công nghệ chuyển đổi số của Tập đoàn Bưu chính viễn thông Việt Nam, ngày 27/4/2023  - Ảnh: TTXVN

1. VỀ NỀN QUẢN TRỊ QUỐC GIA GẮN VỚI CHUYỂN ĐỔI SỐ QUỐC GIA

Xét về thuật ngữ, qua nhiều nghiên cứu cho thấy, khái niệm “quản trị” đã xuất hiện từ rất sớm, thời Hy Lạp cổ đại được hiểu với nghĩa là điều khiển, chèo lái, sau này Plato sử dụng với hàm ý “thiết kế một hệ thống cai trị”, đến thời trung cổ, trong ngôn ngữ tiếng latin, được diễn đạt với nội hàm là điều khiển hay cai trị thông qua pháp luật. Cho đến những năm cuối của thế kỷ XX, ở nhiều quốc gia, “quản trị” thường được hiểu theo nghĩa “cai trị”, sau đó phát triển ở phạm vi đa dạng hơn, không chỉ với vai trò nhà nước, mà còn coi trọng cả vai trò các chủ thể ngoài nhà nước. Đối với nhà nước, quản trị là khả năng hoạch định và thực thi chính sách của chính quyền, hay là năng lực kiểm soát, chèo lái đời sống kinh tế - xã hội. Theo Ngân hàng Thế giới (WB),“quản trị” (Governance) là cách thức thực thi quyền lực trong quản lý nguồn lực kinh tế và xã hội của một quốc gia vì sự phát triển. Trong phạm vi rộng hơn, ở quy mô toàn cầu, quản trị được hiểu ở 3 hàm ý: 1) Hợp tác quốc tế thông qua các thể chế toàn cầu. 2) Hệ thống hành chính nhà nước thực hiện chính sách công. 3) Những quy định hành vi thông qua mạng lưới và cơ chế phi thứ bậc. 

Như vậy, xét về bản chất,quản trị quốc gia là quá trình ra quyết định và tổ chức thực hiện quyết định để giải quyết các vấn đề của đất nước, nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững, hiệu quả theo các mục tiêu đề ra. Đối với nhà nước, trong vấn đề này còn có thuật ngữ “quản lý”, có nội hàm tương đối rộng với nhiều cách tiếp cận ở phạm vi quốc gia, tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân. Đó là “sự tác động có định hướng, có mục đích, có kế hoạch và có hệ thống thông tin của chủ thể đến khách thể”; hay là “quá trình lập kế hoạch, tổ chức, điều phối và kiểm soát các nguồn lực nhằm đạt được các mục tiêu cụ thể”; là “nghệ thuật khiến công việc được thực hiện thông qua người khác”(1). Còn quản trị quốc gia, nhà nước đóng vai trò là chủ thể định hướng chính, dẫn dắt và kiểm soát sự vận động, phát triển của xã hội phù hợp với quy luật khách quan theo chức năng của nhà nước, bên cạnh đó, còn có vai trò các chủ thể ngoài nhà nước tham gia nhằm đảm bảo nguồn lực của xã hội được sử dụng hiệu quả và hướng tới người dân.

Trình độ phát triển khoa học và công nghệ có ảnh hưởng lớn đến quá trình xây dựng, hoàn thiện nền quản trị quốc gia, nhưng suy cho cùng, nhân tố con người vẫn giữ vai trò quyết định. Đặc điểm, sự vận hành của bộ máy công quyền, nền quản trị quốc gia ở từng nước tuy có khác nhau, nhưng về tính hiện đại, hoạt động hiệu lực, hiệu quả vẫn có thể đo lường ở một số dấu hiệu cơ bản. Theo đó, WB đưa ra 6 chỉ số để đánh giá chất lượng quản trị quốc gia gồm: Vai trò, tiếng nói của người dân và trách nhiệm giải trình; sự ổn định về chính trị và xã hội phi bạo lực; hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính phủ; chất lượng của các văn bản, quy định của pháp luật; thượng tôn pháp luật và kiểm soát tham nhũng. Cũng theo quan điểm trên, để quản trị tốt có 3 yếu tố chi phối, đó là: Cơ chế kiểm soát quyền lực hay các quy tắc hạn chế sự lạm quyền trong bộ máy công quyền; sự phản hồi ý kiến của người dân và xã hội về hiệu lực, hiệu quả hoạt động của nền quản trị quốc gia; có môi trường cạnh tranh bình đẳng.

Thủ tướng Phạm Minh Chính, Chủ tịch Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số, chủ trì phiên họp lần thứ 9 của Ủy ban và Tổ công tác triển khai Đề án 06 của Chính phủ, sơ kết 6 tháng đầu năm 2024 về chuyển đổi số quốc gia và Đề án 06. - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Tính công khai, minh bạch là dấu hiệu căn bản không thể thiếu trong nền quản trị quốc gia hiện đại, điều này không chỉ đảm bảo cho bộ máy vận hành hiệu quả, cơ chế giám sát phát huy được tác dụng, đồng thời qua đó các nguồn lực xã hội được huy động và sử dụng hiệu quả. Vì tiến trình hoạch định chính sách công khai có thể dự đoán được, đòi hỏi nền hành chính công phải chuyên nghiệp, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và minh bạch; trách nhiệm giải trình của bộ máy công quyền; sự tham gia của người dân vào hoạt động công và luật pháp công bằng... 

Cũng theo cách tiếp cận trên, một số tổ chức quốc tế coi quản trị hiện đại có một số đặc điểm như sự tham gia của người dân vào quá trình xây dựng chính sách; luật pháp và hệ thống xét xử công bằng; tính minh bạch; trách nhiệm giải trình của cơ quan công quyền và hiệu quả của phòng, chống tham nhũng. Tuy vậy, cũng có ý kiến nhấn mạnh, coi trọng một số đặc điểm về sự bình đẳng, tham gia của người dân để đưa ra các tiêu chí, như Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên Hợp quốc (UNDP) cho rằng, nền quản trị quốc gia hiện đại là: 1) Đảm bảo sự tham gia của người dân; 2) Sự công bằng của luật pháp; 3) Tính minh bạch; 4) Đáp ứng mọi bên liên quan; 5) Hướng tới sự đồng thuận; 6) Bình đẳng; 7) Hiệu lực và hiệu quả; 8) Trách nhiệm giải trình; 9) Tầm nhìn chiến lược. Ngược lại, Ngân hàng Phát triển Châu á (ADB) lại nhấn mạnh một số tiêu chí: 1) Có trách nhiệm giải trình; 2) Sự tham gia của các chủ thể trong quá trình hoạch định chính sách; 3) Có thể dự đoán được; 4) Tính minh bạch... Tuy mức độ đề cập những đặc điểm, tiêu chí có thể khác nhau về phạm vi các vấn đề và trật tự giữa chúng, các tổ chức quốc tế đưa ra những cách nhìn mới về mức độ xem xét hoặc dùng các thuật ngữ khác nhau để chỉ một nền quản trị quốc gia hiện đại, nền quản trị tốt, như: đặc điểm, dấu hiệu, tiêu chí đánh giá, chuẩn mực, đặc trưng…

Có thể khái quát chung, những đặc điểm cơ bản hoặc chuẩn mực chung của nền quản trị quốc gia hiện đại: Thứ nhất, tính pháp quyền trong thực hiện quyền lực công. Ở đây không chỉ là việc ban hành chính sách mà còn cả trong quá trình thực hiện phải tuân thủ pháp luật, theo đó các cơ quan công quyền, trên cơ sở các quy định của pháp luật, không thể ban hành các quyết định vượt phạm vi, thẩm quyền được quy định của pháp luật. Thứ hai, tính minh bạch. Trong ban hành và thực thi chính sách, các quyết định hành chính, chủ thể chịu tác động của chính sách phải được biết, được tham gia; người dân được thông tin, thậm chí giám sát trong quá trình ban hành và thực thi chính sách. Thứ ba, trách nhiệm giải trình. Các cơ quan công quyền khi ban hành chính sách phải có trách nhiệm giải trình không chỉ về mục đích ban hành, tác động xã hội mà còn phải chịu trách nhiệm về hậu quả theo thẩm quyền. Thứ tư, sự tham gia của người dân vào quá trình hoạch định và thực thi chính sách, được cung cấp thông tin, được tạo điều kiện để đóng góp, thể hiện quan điểm, trong một số trường hợp được trực tiếp tham gia vào quá trình ban hành chính sách. Thứ năm, công bằng và không loại trừ. Đây là đặc điểm mang tính tiến bộ, tích cực của chế độ xã hội. Lợi ích của mọi người dân, các nhóm xã hội đều phải được coi trọng như nhau trong quá trình ban hành và thực thi chính sách, không ai bị bỏ lại phía sau, đặc biệt là nhóm người yếu thế đều phải có cơ hội, tiếng nói tham gia vào quá trình quản trị. Thứ sáu, nhanh nhạy phản ứng tương thích, kịp thời. Đây là đặc điểm phản ánh hiệu lực, hiệu quả của nền quản trị công. Muốn vậy, các cơ quan công quyền phải phát hiện nhanh, sớm các vấn đề phát sinh và có phản ứng tương thích, nhờ đó không chỉ bảo vệ lợi ích của người dân, đất nước mà còn nâng cao tính cạnh tranh quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hóa. Bên cạnh đó, các đặc điểm khác như tầm nhìn chiến lược, có thể dự đoán được, chống tham nhũng... là những dấu hiệu phái sinh, là hệ quả khi thực hiện tốt các đặc điểm chính nêu trên.

Ở Việt Nam, thuật ngữ “quản trị quốc gia” mới được sử dụng nhiều trong khoảng 10 năm gần đây. Trước đó, thuật ngữ “quản lý nhà nước” luôn gắn liền với yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước của dân, do dân và vì dân, Nhà nước dân chủ nhân dân, Nhà nước chuyên chính vô sản và nay là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam. Quá trình xây dựng, hoàn thiện nền quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hoạt động hiệu lực, hiệu quả ở Việt Nam được nhắc nhiều hơn gắn với yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Để nhà nước hoạt động hiệu lực, hiệu quả trước hết phải chuyển đổi căn bản mô hình, chức năng và nhiệm vụ của nhà nước phù hợp với từng giai đoạn cách mạng. Đảng Cộng sản Việt Nam kế thừa, vận dụng, phát triển những tư tưởng trên trong quá trình đấu tranh giành độc lập, xây dựng đất nước, tiến hành công cuộc đổi mới... Khái quát lý luận và thực tiễn về vấn đề này, có thể thấy, trước Cương lĩnh 1991, trong các văn kiện của Đảng mới xác định chuyển từ Nhà nước chuyên chính vô sản sang Nhà nước có tính pháp quyền. Hiến pháp năm 1992 ghi rõ: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”.Văn kiện Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa VII (1994): “Nhà nước pháp quyền thực sự của dân, do dân và vì dân”. Hội nghị Trung ương 8 khóa VII (1995) bàn riêng về Nhà nước. Đại hội VIII xác định “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, trọng tâm là cải cách một bước nền hành chính”. Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII cụ thể hóa nhận thức: “Từng bước phát triển hệ thống quan điểm, nguyên tắc cơ bản về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân”, chỉ rõ: “...trong điều kiện chuyển đổi nền kinh tế là nhiệm vụ mới mẻ, hiểu biết của chúng ta còn ít, có nhiều việc vừa phải làm, vừa tìm tòi, rút kinh nghiệm”.  

Đại hội IX (2001), chủ trương: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng, là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân”. Đại hội X (2006) tiếp tục khẳng định quyền lực là thống nhất, sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước; xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền. Cụ thể như: “Xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp”. Trong giai đoạn này, Bộ Chính trị đã ban hành 2 nghị quyết quan trọng: Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020” và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”. 

Cương lĩnh (bổ sung và phát triển năm 2011) thể hiện bước phát triển mới về nhận thức của Đảng. Khẳng định Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân, là một trong 8 đặc trưng của Xã hội XHCN mà chúng ta xây dựng, đó là: “Có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo”(2), sau đó mở rộng thêm về việc kiểm soát quyền lực. Tư tưởng này được cụ thể hóa trong Hiến pháp năm 2013. Các văn kiện Đại hội XI, XII của Đảng đều đặt ra nhiệm vụ này, nhưng nhấn mạnh phải được tiến hành đồng bộ, gắn với đổi mới hệ thống chính trị. Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam… là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị”(3); đề ra nhiệm vụ: Nghiên cứu, ban hành Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045, trong đó có Chiến lược pháp luật và cải cách tư pháp. 

Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2010-2020, Hiến pháp năm 2013 và nhiều văn bản quan trọng khác của Đảng và Nhà nước đã khẳng định: Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý, điều hành và năng lực kiến tạo phát triển; xác định phải “Huy động, sử dụng các nguồn lực thực hiện theo cơ chế thị trường. Đổi mới phương thức quản trị quốc gia, nhất là quản lý phát triển và quản lý xã hội. Xây dựng bộ máy nhà nước pháp quyền XHCN tinh gọn, hiệu lực và hiệu quả; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền bảo đảm quản lý thống nhất, phát huy tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các cấp, các ngành”(4).

Về chuyển đổi số quốc gia, theo Từ điển mở Wikipedia là việc vận dụng tính luôn đổi mới, nhanh chóng của công nghệ kỹ thuật để giải quyết vấn đề, đây là khái niệm được ra đời trong thời kỳ bùng nổ internet, đặc biệt là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Cách mạng 4.0) hay diễn đạt theo một cách khác: “Chuyển đổi số quốc gia là quá trình thay đổi toàn diện và tổng thể của quốc gia về về cách thức, phương thức quản trị quốc gia dựa trên nền tảng công nghệ số”. Đặc trưng của cuộc Cách mạng 4.0 là sự hội tụ của công nghệ mới xuất hiện dựa trên nền tảng kết nối và công nghệ số, kết hợp giữa hệ thống ảo và thực.

Ở Việt Nam, Báo cáo chính trị tại Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ: “Thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số, xã hội số để tạo bứt phá về nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế”; “Đẩy mạnh xây dựng chính phủ điện tử, tiến tới chính phủ số, trong đó tập trung phát triển hạ tầng số phục vụ các cơ quan nhà nước một cách tập trung, thông suốt”; “Thực hiện chuyển đổi số quốc gia một cách toàn diện để phát triển kinh tế số, xây dựng xã hội số. Phấn đấu đến năm 2030, hoàn thành xây dựng chính phủ số, đứng đầu trong nhóm 50 quốc gia hàng đầu thế giới và xếp thứ ba trong khu vực ASEAN về chính phủ điện tử, kinh tế số”. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030 khẳng định: “Phát triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào khoa học, công nghệ và đổi mới, sáng tạo và chuyển đổi số”. Nội dung nay cũng được đề cập trong 3 đột phá chiến lược, đặc biệt là Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị khóa XII về “Một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” cũng đã chỉ rõ: “Thúc đẩy chuyển đổi số trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội”; “Xây dựng và phát triển đồng bộ hạ tầng dữ liệu quốc gia. Hình thành trung tâm dữ liệu quốc gia, trung tâm dữ liệu vùng và địa phương kết nối đồng bộ và thống nhất”. Như vậy có thể thấy, trong các văn kiện quan trọng của Đảng, chuyển đổi số quốc gia được coi là vấn đề chiến lược trong đường lối phát triển kinh tế.

2. XÂY DỰNG, HOÀN THIỆN NỀN QUẢN TRỊ HOẠT ĐỘNG HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ GẮN VỚI CHUYỂN ĐỔI SỐ QUỐC GIA - TỪ QUAN ĐIỂM ĐẾN HIỆN THỰC

Kết quả đạt được trong quá trình xây dựng nền quản trị gắn với chuyển đổi số quốc gia ở Việt Nam:

Thứ nhất, thực sự đóng góp vào những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử sau 40 năm đổi mới đất nước. Chưa bao giờ đất nước có vị thế, uy tín, tiềm lực và cơ đồ to lớn như ngày nay.

Thứ hai, hoạt động xây dựng pháp luật phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng, trong gần 50 năm đất nước thống nhất, số lượng luật và pháp lệnh ban hành tăng nhanh. Trong 20 năm đầu đổi mới (1986-2005), Quốc hội thông qua 7 bộ luật, 133 luật và 15 pháp lệnh thì gần 20 năm sau (2006-2021), Quốc hội thông qua hơn 300 luật, pháp lệnh. Nhiều điều luật, điều ước quốc tế phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước đã được nội luật hóa, nhất là vấn đề liên quan đến quyền con người. Hiệu quả thực thi pháp luật không ngừng được nâng lên. 

Thứ ba, liên quan chuyển đổi số quốc gia, đến nay đã có 2 luật được Quốc hội ban hành; 14 nghị định của chính phủ; 2 chỉ thị, 2 công điện, 7 nghị quyết, 25 thông báo kết luận của Thủ tướng Chính phủ. Đặc biệt năm 2023, Quốc hội đã thông qua Luật Giao dịch điện tử và Luật Viễn thông sửa đổi. Đến nay đã có 5/30 bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ ban hành nghị quyết của Ban cán sự Đảng về chuyển đổi số; 29/30 bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ ban hành chương trình, kế hoạch chuyển đổi số. 

Thứ tư, đổi mới tư duy về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN, gắn kết với chuyển đổi số. Thông qua chuyển đổi số đảm bảo quyền lực nhà nước thống nhất hơn; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp được minh bạch, hiệu lực, hiệu quả hơn; tính chuyên nghiệp, minh bạch, trách nhiệm giải trình, phân cấp, phân quyền khoa học, hiệu lực, hiệu quả hơn. 

Thứ năm, Chương trình chuyển đổi số quốc gia, Chiến lược quốc gia phát triển chính phủ số, kinh tế số, xã hội số đặt ra 62 mục tiêu, đã hoàn thành 18 mục tiêu; năm 2023 đặt ra 126 nhiệm vụ, đến nay đã hoàn thành 102 nhiệm vụ, đạt 81% kế hoạch. 

Thứ sáu, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức theo hướng tinh gọn, chuyên nghiệp, có phẩm chất đạo đức tốt và đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Chất lượng đội ngũ cán bộ không ngừng được nâng lên, trong giai đoạn 2011-2020, số cán bộ, công chức hiện có ở bộ, ngành và địa phương từ cấp huyện trở lên là 295.536 người (trong đó ở các bộ, ngành trung ương là 125.144 người). Về chuyên môn, đào tạo: Tiến sĩ: 2.347 người, (0,8%); Thạc sĩ: 19.136 người (chiếm 6,5%); Đại học: 210.592 người (chiếm 71,3%); Cao đẳng: 12.885 người (chiếm 4,4%)(5) .

Thứ bảy, công cuộc đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước được triển khai tích cực bằng nhiều biện pháp. Chỉ tính riêng trong các năm 2016-2021, ngành Tòa án đã thụ lý 2.433.631 vụ việc, đã giải quyết được 2.375.938 vụ việc, đạt tỷ lệ 97,6%. Đã xét xử 7.463 vụ án tham nhũng, chức vụ, kinh tế nghiêm trọng, phức tạp với 14.540 bị cáo, áp dụng hình phạt nghiêm minh, đúng pháp luật(6); từ năm 2021-2024 công cuộc đấu tranh chống tham nhũng tiếp tục được đẩy mạnh. 

Thứ tám, sự lãnh đạo của Đảng, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên, các tổ chức xã hội tham gia đóng góp, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN không ngừng được nâng lên. Chuyển đổi số góp phần tạo ra sự thống nhất, hiệu lực lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị không ngừng được nâng lên; dân chủ XHCN tiếp tục được coi trọng. 

Những hạn chế, khuyết điểm, bất cập:

Bộ máy nhà nước còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, một số lĩnh vực chưa được phân công, phân quyền đủ mạnh, chưa rành mạch dẫn đến tình trạng thẩm quyền vừa manh mún vừa có sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ. Việc phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực còn nhiều bất cập.Yêu cầu xây dựng một hệ thống hành chính dựa trên nguyên tắc phân định rõ thẩm quyền, trách nhiệm, chuyên nghiệp chưa theo kịp với thực tiễn; hệ thống luật pháp tuy đã có bước phát triển mạnh, nhưng vẫn còn tình trạng vừa thiếu, vừa yếu. Thủ tục hành chính còn rườm rà; việc chấp hành pháp luật có lúc, có nơi còn chưa nghiêm; việc vi pháp pháp luật, mất dân chủ trong tổ chức thực hiện chưa được khắc phục; tham nhũng, tiêu cực tuy có giảm nhưng diễn biến còn phức tạp. 

Trách nhiệm giải trình của các cơ quan trong bộ máy Nhà nước trước dân có nơi còn hình thức. Cải cách tư pháp đã có nhiều tiến bộ trong hoạt động tố tụng, xét xử các vụ án, song tình trạng oan sai, nợ đọng còn nhiều.Vai trò của hệ thống thông tin, báo chí đã được coi trọng hơn, nhưng việc xử lý thông tin, trách nhiệm giải quyết một số vụ việc chưa rõ ràng, thậm trí nhiều vụ việc còn chưa minh bạch. Vai trò của các tổ chức xã hội chưa phát huy đầy đủ, quyền con người, quyền công dân có lúc, có nơi còn bị vi phạm. Về thực hành dân chủ chưa thật đồng bộ, đặc biệt trong xử lý các mối quan hệ giữa quyền và trách nhiệm, dân chủ và kỷ cương ở một số lĩnh vực, bộ phận cơ quan công quyền với người dân chưa rõ ràng. 

Hệ thống dữ liệu quốc gia cốt yếu chưa được hoàn thành, do vậy tính kết nối, chia sẻ dữ liệu còn hạn chế, ảnh hưởng đến hiệu quả quản trị của nhà nước; việc triển khai các nền tảng số quốc gia do các bộ, ngành ở Trung ương chủ trì còn chậm; đội ngũ nhân lực cho chuyển đổi số còn thiếu và bất cập. Số lượng, chất lượng kỹ sư, kỹ thuật viên về công nghệ thông tin, chuyển đổi số còn rất hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu. Các nhiệm vụ về phát triển nguồn nhân lực chuyển đổi số quốc gia còn chậm triển khai, ảnh hưởng đến hiệu quả quản trị của nhà nước.

Theo WB, chất lượng các quy định và hiệu lực của Chính phủ Việt Nam còn thấp (đứng thứ 91 năm 2016, 82 năm 2017 và 68 năm 2018 trong 190 nền kinh tế được xếp hạng). Năm 2018, một số chỉ số của Việt Nam còn khá thấp, như: Khởi sự kinh doanh thứ 123 và phá sản thứ 129 trong số quốc gia được WB đánh giá. Việc thực hiện phân cấp, phân quyền Trung ương và chính quyền địa phương vẫn còn nhiều hạn chế, chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm, sự chủ động của cơ sở, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế, trong quản lý nguồn lực, chống tham nhũng, tiêu cực...

3. MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ NỀN QUẢN TRỊ GẮN VỚI CHUYỂN ĐỔI SỐ QUỐC GIA TRONG KỶ NGUYÊN VƯƠN MÌNH CỦA ĐẤT NƯỚC

Đất nước chuẩn bị bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, vững bước đi trên con đường CNXH mà Đảng, Bác Hồ và Nhân dân ta đã lựa chọn. Một kỷ nguyên mới bắt đầu, khi Việt Nam đến năm 2030 kỷ niệm 100 thành lập Đảng, thời điểm nước ta trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Khi đó, cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam đã đạt đến trạng thái phát triển mới, trạng thái vươn mình, “cất cánh”, là kết quả của 45 năm đổi mới, 55 năm thống nhất đất nước, với hơn 100 triệu dân, đang ở thời điểm dân số vàng; có nền kinh tế độc lập, tự chủ trong nhóm 30 quốc gia có quy mô lớn trên thế giới, với nhiều tiềm lực, thế mạnh mới phát huy tác dụng về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, kinh tế số, kinh tế xanh.., sự phát triển mạnh mẽ của trí tuệ nhân tạo; hệ thống hạ tầng kinh tế - xã hội lớn, cũng như nhiều sức mạnh nội lực khác của đất nước tiếp tục phát triển, đặc biệt là sự tự tin, khát vọng phát triển đất nước được khơi dậy. Vì thế, trong kỷ nguyên mới, cần quản trị mới, thông minh. Để nâng cao hiệu quả quản trị đất nước gắn với chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, trước mắt cần tập trung thực hiện một số giải pháp sau:

Một là, quản trị quốc gia theo hướng hiện đại hoạt động hiệu lực, hiệu quả phải đặt trong quá trình tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị; phải coi chuyển đổi số là công cụ đặc biệt quan trọng để nâng cao hiệu quả quản trị quốc gia. 

Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước theo hướng kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động. Xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước. 

Xây dựng và hoàn thiện cơ chế để người dân tham gia đầy đủ hơn vào quá trình hoạch định và thực hiện chính sách. Lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững. 

Xác định rõ hơn chức năng quản lý nhà nước, điều hành nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các công cụ điều tiết trên cơ sở quy luật thị trường đi đôi với tăng cường công tác giám sát, giảm các tác động tiêu cực của thị trường; không can thiệp, làm sai lệch các quan hệ thị trường, coi trọng thực hiện hiệu quả chuyển đổi số, chuyển đổi xanh. 

Đẩy mạnh xây dựng, phát triển hệ thống cơ sở dữ liệu, là công cụ để nhà nước quản lý minh bạch, hiệu lực, hiệu quả. Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong phân cấp, phân quyền, xác định rõ trách nhiệm giữa chính phủ với các bộ, ngành; giữa chính phủ, các bộ, ngành với chính quyền địa phương, bảo đảm quản lý nhà nước thống nhất, đồng thời phát huy vai trò chủ động, sáng tạo, tinh thần trách nhiệm của từng cấp, từng ngành; khắc phục triệt để chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn; tiếp tục sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng tinh gọn, bảo đảm chất lượng, hiệu quả. Nâng cao chất lượng dịch vụ công, hành chính công.

Triển lãm thực tế ảo “Tổ quốc bên bờ sóng” được ứng dụng công nghệ 3D trưng bày 121 tác phẩm ảnh nghệ thuật.  Ảnh: TTXVN

Hai là, đổi mới, hoàn thiện cơ cấu tổ chức của chính phủ, các bộ, ngành theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, trên cơ sở tổ chức hợp lý các bộ đa ngành, đa lĩnh vực; phát huy đầy đủ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp, tập trung vào quản lý vĩ mô, xây dựng thể chế, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch. 

Tăng cường năng lực dự báo và khả năng thích ứng chính sách trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN. Thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi số, xây dựng chính phủ điện tử, tăng cường sự kết nối, trao đổi thông tin thường xuyên giữa chính quyền các cấp, giữa chính quyền với người dân và doanh nghiệp. 

Nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật; cải cách thủ tục hành chính; kiện toàn tổ chức, tinh giảm hợp lý đầu mối, bỏ cấp trung gian, tinh giản biên chế. Gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng pháp luật với tổ chức thi hành pháp luật. 

Hoàn thiện cơ chế về trách nhiệm giải trình, chịu trách nhiệm về những hậu quả trong ban hành và thực thi chính sách của các cơ quan nhà nước, lấy lợi ích người dân, sự hài lòng của người dân và lợi ích xã hội làm tiêu chí đánh giá. 

Ba là, nghiên cứu, chủ động tham gia sâu hơn các luật chơi, tiêu chí đánh giá quốc tế, những chuẩn mực về quản trị doanh nghiệp, nền quản trị quốc gia hiện đại, phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong quá trình hội nhập của đất nước. 

Xác định đúng mức, linh hoạt mức độ can thiệp của chính phủ (quy mô, phạm vi tác động của chính phủ tới nền kinh tế thị trường đến đâu là hiệu quả, tối ưu), khắc phục những thất bại của thị trường như bất đối xứng thông tin, hàng hóa công, các hiện tượng ngoại ứng, phân hóa giầu nghèo, bất bình đẳng, phát triển tự phát… 

Khẳng định và làm rõ hơn vai trò to lớn của Nhà nước trong xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đảm bảo hiệu lực, hiệu quả, sự ổn định và phát triển của đất nước. Đồng thời, tiếp tục hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí một cách hiệu quả. 

Các cơ quan công quyền thực thi các quyết định đã ban hành phải tuân thủ các quy trình, bảo đảm việc sử dụng hiệu quả nhất các nguồn lực, đảm bảo sự công bằng, bình đẳng, không ai bị bỏ lại phía sau, nhất là các đối tượng yếu thế trong quá trình tổ chức thực hiện. 

Bốn là, tiếp tục đẩy nhanh tiến độ ban hành các văn bản pháp luật, xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định. 

Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục pháp luật, đảm bảo cho pháp luật được nhận thức và thực hiện đầy đủ trên thực tế. 

Xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Đảm bảo cho hoạt động tư pháp làm tốt chức năng bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân. Xây dựng và thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp giai đoạn mới theo hướng tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động và uy tín của các cơ quan tư pháp và các cơ quan, tổ chức tham gia vào quá trình tố tụng tư pháp; phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả với hoạt động của tội phạm và vi phạm pháp luật; giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các loại tranh chấp, khiếu kiện theo luật định. Tăng cường khả năng tiếp cận pháp luật của người dân và doanh nghiệp.

Năm là, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất, năng lực phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước, nhanh chóng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nòng cốt thực hiện chuyển đổi số. 

Nâng cao tính chuyên nghiệp, trách nhiệm, kỷ luật công vụ, có cơ chế lựa chọn, đào tạo, thu hút, trọng dụng nhân tài, khuyến khích, bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. 

Tăng cường kỷ luật, kỷ cương đi đôi với cải cách tiền lương, chế độ, chính sách, đãi ngộ, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, điều kiện làm việc để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phục vụ phát triển. Đưa ra yêu cầu, có cơ chế sàng lọc, thay thế kịp thời những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm pháp luật, kỷ luật, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp, không còn uy tín đối với nhân dân.

Đẩy nhanh việc đầu tư, ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ trong quản trị doanh nghiệp, quản trị quốc gia, đặc biệt là công nghệ thông tin trong quá trình chuyển đổi số quốc gia, xây dựng nền kinh tế số, xã hội số. Tiếp cận những thành quả tiên tiến nhất trong quản trị quốc gia, ứng dụng vào thực tiễn Việt Nam.'

Sáu là, hoàn thiện cơ chế thông tin, phản hồi, đảm bảo sự tham gia, giám sát của người dân trên thực tế trong suốt quá trình từ khâu ban hành chính sách, quyết định hành chính đến tổ chức thực hiện, coi đây là chìa khóa nâng cao chất lượng quản trị quốc gia trong giai đoạn hiện nay. 

Bên cạnh việc xây dựng và hoàn thiện bộ máy hành chính minh bạch và có trách nhiệm giải trình; chính phủ điện tử; thiết lập cơ chế đối thoại liên tục; xây dựng hệ thống dịch vụ công hiệu quả, cần đẩy mạnh thông tin tuyên truyền, nâng cao nhận thức xã hội. 

Nghiên cứu, đưa ra cách tiếp cận lý thuyết về kinh tế thị trường hiện đại, giới hạn can thiệp của Nhà nước theo các chuẩn mực quốc tế; đặc điểm, mô hình quản trị quốc gia hiện đại trong điều kiện Cách mạng 4.0. Nghiên cứu phân tích các tiêu chí cụ thể trên bộ tiêu chí quốc tế có thể đo lường được, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. 

Tiếp tục bổ sung, phát triển hệ thống lý luận về CNXH, con đường đi lên CNXH; về Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân; các đặc điểm riêng gắn với các tiêu chí quốc tế, những vấn đề mang tính phổ quát, những vấn đề mang tính đặc thù, phù hợp với thực tiễn Việt Nam./.

PGS. TS. PHẠM VĂN LINH 

Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương

Tác giả bài viết: Long Sơn ( Tổng hợp )

Nguồn tin: Tạp chí Tuyên giáo

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây